Thầy H.P., giáo viên dạy Toán tại TP.HCM, nhận định để được xét nâng hạng giáo viên còn khó hơn hoàn thành khóa học thạc sĩ. Nhiều giáo viên trong trường không đoái hoài.
Khi có Thông tư Quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp hạng viên chức giảng dạy trong các trường tiểu học công lập, cô N.M. (Lâm Đồng) thử tự đánh giá bản thân. Cô hy vọng bản thân có thể được xếp hạng II.
“Nhưng để được xếp hạng II không hề dễ. Tôi đáp ứng gần đủ tiêu chuẩn nhưng chưa từng tổ chức báo cáo chuyên đề”, cô M. cho hay.

Tiêu chuẩn cho giáo viên hạng II và hạng I rất khó thực hiện. Ảnh minh họa: Lê Hiếu.
Nhiều tiêu chuẩn để được nâng hạng
Theo quy định, để được xếp hạng II, giáo viên tiểu học phải là báo cáo viên hoặc dạy minh họa ở các lớp bồi dưỡng giáo viên tiểu học hoặc dạy thử nghiệm các mô hình, phương pháp mới từ cấp trường trở lên.
Họ cũng cần chủ trì các nội dung bồi dưỡng và sinh hoạt chuyên môn/chuyên đề ở tổ, khối chuyên môn, tham gia đánh giá, xét duyệt đề tài nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng của đồng nghiệp từ cấp trường trở lên.
Tham gia ban giám khảo hội thi giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi, giáo viên làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh giỏi từ cấp trường trở lên; thực hiện các nhiệm vụ của giáo viên cốt cán trường tiểu học cũng là yêu cầu đối với giáo viên muốn xếp hạng II.
Họ cần tham gia các hoạt động chuyên môn khác như kiểm định chất lượng giáo dục, thanh tra, kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm từ cấp trường trở lên; tham gia hướng dẫn, đánh giá thực tập sư phạm của sinh viên (nếu có).
Ngoài ra, để được xếp hạng II, giáo viên tiểu học phải là chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, hoặc được nhận bằng khen, giấy khen từ cấp huyện trở lên, hoặc được công nhận đạt một trong các danh hiệu giáo viên dạy giỏi, giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi từ cấp trường trở lên, giáo viên làm Tổng phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh giỏi từ cấp huyện trở lên.
Với hàng loạt điều kiện như trên, cô N.M. “buông xuôi”, chấp nhận là giáo viên hạng III dù chưa tổ chức xét hạng.
Thầy H.P., giáo viên dạy Toán tại một trường THPT ở TP.HCM, nhận định để được xét nâng hạng giáo viên còn khó hơn hoàn thành khóa học thạc sĩ.
“Tôi buồn đến mức không muốn đọc hết thông tư. Để được nâng hạng là vô cùng khó, tôi nhấn mạnh là vô cùng khó. Ở trường tôi, mọi người không đoái hoài nữa, không học chứng chỉ chức danh, cứ để hạng III”, thầy P. chia sẻ.
Thầy nói thêm để đạt hạng I, giáo viên THPT cần “tham gia biên soạn hoặc thẩm định hoặc lựa chọn sách giáo khoa, tài liệu giáo dục địa phương hoặc các tài liệu dạy học khác và tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên”.
Trong khi đó, không phải năm nào cũng có sách giáo khoa mới để tham gia biên soạn, thẩm định hay lựa chọn. Phần “tài liệu giáo dục địa phương hoặc các tài liệu dạy học khác và tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên” cũng không rõ ràng, giáo viên không nắm được.
Yêu cầu là chiến sĩ thi đua hay nhận bằng khen cấp tỉnh cũng không dễ đạt được.
Tương tự, cô H.T., giáo viên ở TP.HCM, cho biết nếu chỉ xét theo quy định, cô đạt hạng II, dư điều kiện để lên hạng I nhưng “ai cho thăng hạng mà thăng”.
Cô T. cho biết nguyên tắc xét hạng được quy định: “Việc cử giáo viên dự xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp phải căn cứ vào vị trí việc làm, cơ cấu chức danh nghề nghiệp, nhu cầu của các cơ sở giáo dục công lập và tình hình thực tế của địa phương”.
Quy định này khiến giáo viên có thể chịu thiệt thòi vì không phải cứ đủ điều kiện là có thể thăng hạng.

Một số giáo viên muốn tập trung dạy học thay vì đầu tư thời gian để thăng hạng. Ảnh minh họa: Việt Hùng.
Không học thêm chứng chỉ để tập trung dạy học
Việc xếp hạng giáo viên liên quan đến mức lương giáo viên sẽ nhận được. Do đó, thông tư của Bộ GD&ĐT về quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương nhận được sự quan tâm của nhiều giáo viên.
Tuy nhiên, khi đọc hết tiêu chuẩn xếp hạng giáo viên và tự đối chiếu điều kiện bản thân, không ít giáo viên thấy thất vọng.
“Tôi thấy giáo viên, từ mầm non đến THPT, rất tội nghiệp. 5 năm qua, giáo viên bị bủa vây với đủ loại chứng chỉ, không đủ bình yên để tập trung dạy học”, thầy H.P. chia sẻ.
Thầy P. nói thêm theo quy định mới, giáo viên không cần có chứng chỉ tin học, ngoại ngữ. Nhưng yêu cầu xếp hạng giáo viên bao gồm cả “có khả năng sử dụng ngoại ngữ” và “có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin”. Như vậy, chứng chỉ ngoại ngữ, tin học chưa được bỏ triệt để.
Hiện tại, để xếp hạng III, II hay I, giáo viên cần học và thi chứng chỉ bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên. Theo thầy P., việc phải học thêm các chứng chỉ khiến giáo viên sao nhãng công việc chuyên môn dạy học.
Thực tế, ngay khi bộ ra thông tư mới, nhiều người phải tranh thủ tìm nơi học để được xếp hạng. Cô N.M. là một trong số đó. Cô M. cho biết cô và một số đồng nghiệp đang nghiên cứu nơi học chứng chỉ này. Nhiều người thậm chí không biết họ có cần học chứng chỉ chức danh nghề nghiệp hay không.
Trong khi đó, cô H.T. cho hay cô có nghe thông tin đăng ký đi học để để thăng hạng nhưng học xong có được xét thăng hạng hay không lại chưa có thông tin.
Vì vậy, cô H.T. quyết định không quan tâm đến chuyện thăng hạng để tập trung dạy học và giữ niềm vui với nghề.
Tương tự, thầy H.P. cho rằng thay vì làm hồ sơ, học chứng chỉ để được thăng hạng, giáo viên nên chú trọng công tác giảng dạy và học thêm.
“Thời gian đầu tư để được nâng hạng, tôi nghĩ dành để học tiến sĩ còn hơn”, thầy P. nói.
Thầy P. hy vọng các cấp lãnh đạo nghiên cứu lại. Việc thăng hạng giáo viên nên căn cứ vào quá trình lao động. Ví dụ, sau 15 năm công tác, giáo viên là lao động tiên tiến, giảng dạy tốt, không vi phạm được nâng lên hạng II. Tương tự, 25 năm gắn bó với nghề, làm tốt, giáo viên được nâng hạng I.
Ông cho rằng đặt ra cho giáo viên quá trình phấn đấu rõ ràng như vậy sẽ hợp lý hơn việc đề ra hàng loạt yêu cầu khó thực hiện.
Nguyễn Sương